Truy cập

Hôm nay:
28
Hôm qua:
93
Tuần này:
474
Tháng này:
9435
Tất cả:
250297

“Được mùa Nông Cống sống mọi nơi”

Ngày 10/08/2013 16:23:30

Từ lâu, tôi đã nảy sinh ý tưởng giải mã câu ca “Được mùa Nông Cống sống mọi nơi”. Xuất phát từ Hà Nội vào Thanh Hoá, tôi về Nông Cống, gặp Phó Ban Tuyên giáo huyện ủy Hoàng Sỹ Huệ, anh đưa đoàn chúng tôi đi thực tế ở một số xã. Tôi nêu câu hỏi: Theo anh Huệ, câu ca “Được mùa Nông Cống sống mọi nơi”, anh giải mã thế nào ? Anh nói: - câu này phải dẫn dắt từ thế kỷ thứ 17, cái gốc vẫn là Nông Cống xưa là huyện nhiều lúa gạo, nếu được mùa thì san sẻ cho các địa phương khác...

Theo sách vở ghi lại, sản vật nhiều nhất ở Nông Cống xưa nay vẫn là lúa gạo. Ngay cái tên Nông Cống đã nói lên điều đó. Huyện Nông Cống trước và sau công nguyên có tên là huyện Tư Nông (Huyện có nhiều sản vật nông nghiệp). Chữ Nông Cống bây giờ, theo chữ Hán có nghĩa là cung cấp, cống nạp về lương thực, sản phẩm nông nghiệp.

Có phải câu ca “Được mùa Nông Cống sống mọi nơi” có nghĩa là Nông Cống được mùa thì đỡ phải đi mua lúa gạo những nơi khác không? Có người hiểu như thế. Nếu hiểu như thế, thì giải thích thế nào về câu ca xưa của người xứ Thanh “Cơm Nông Cống, cá Quảng Xương, văn chương Hoằng Hóa”. Và ngay câu tiếp theo câu “Được mùa Nông Cống sống mọi nơi” là câu “Mất mùa Nông Cống tả tơi mọi vùng”. Trong dân gian còn truyền tụng câu “Nghệ Yên Thành, Thanh Nông Cống” (Nghệ An thì huyện Yên Thành là nhiều lúa, Thanh Hóa thì huyện Nông Cống là nhiều lúa).

Vậy thì tại sao bây giờ có người hiểu và giải thích câu ca trên khác đi?

Đúng là những năm 60 của thế kỷ trước, do điều kiện thiên tai hạn lụt xảy ra liên tục, tình hình thủy lợi giải quyết chưa triệt để nên đời sống rất nhiều khó khăn. Nông Cống có núi Nưa. Ngày xưa, rừng Nưa chưa bị phá, lũ lụt chưa dữ dội. Sau nhiều năm bị tàn phá, rừng Nưa thành đồi trọc, mưa là nước dội xuống đồng, bị ngập ngay. Xem các bản đồ cũ từ những năm 50 của thế kỷ trước, đều có các suối và hồ lớn có dung tích chứa nước đáng kể như hồ Vực Bưu, hồ Cổ Định, Mau Sở, hồ Tinh Mễ... nhưng thực tế hiện nay, các hồ này đã biến mất vì đất đá trên núi tràn xuống lấp hết. Cứ mỗi mùa lũ, mặt bằng cánh đồng ven núi Nưa lại bị bồi cao lên một ít. Sông Nhơm bé lại như một con ngòi nhỏ... Mặt khác, từ khi thành lập huyện Triệu Sơn tháng 2-1965, Nông Cống chia đôi. Bắc huyện Nông Cống bị cắt đi 20 xã có phần đất màu mỡ của các xã Tân Ninh, xã Nông Trường, Khuyến Nông, Tiến Nông... có nhiều thuận lợi về nông nghiệp vì đã căn bản giải quyết được vấn đề khô hạn do có nước nông giang từ đập Bái Thượng về. Để bù vào, Nông Cống được cả một vùng đất Tây Bắc huyện Tĩnh Gia là 7 xã vùng đất chua mặn, chất lượng đất và năng suất lúa kém. Đói lúc ấy là phải thôi. Bây giờ, mọi điều đã khác rồi. Diện tích đất cấy lúa của Nông Cống vẫn là dẫn đầu cả tỉnh Thanh Hoá. Theo số liệu năm 2012, tổng diện tích gieo trồng cả huyện là 28.133 ha, trong đó diện tích lúa 21.327,2 ha. Năng suất lúa năm 2012 đạt 60,4 tạ/ha, cao nhất từ trước đến nay và là 1 trong 6 huyện có năng suất lúa cao nhất tỉnh.

Buổi tối, Bí thư huyện uỷ Phạm Minh Chính đi công tác về. Anh Chính thông tin thêm: Năm 2012, bình quân lương thực theo đầu người là một trong những huyện nằm trong tốp đầu của tỉnh, 726,40 kg. Năng suất lúa theo diện tích là 1 trong 6 huyện cao nhất của tỉnh: 65 tạ/ha-vụ. Bàn về xây dựng nông thôn mới, anh Chính cho biết: Xây dựng nông thôn mới ở Nông Cống được tỉnh đánh giá là huyện có tốc độ xây dựng khá nhanh chỉ sau huyện Yên Định và một vài huyện khác. Nông Cống hiện đã có 25/29 xã hoàn thành việc lập đề án quy hoạch xây dựng nông thôn mới, bình quân toàn huyện đạt 7,4 tiêu chí. Nếu tính từ khi bắt đầu triển khai xây dựng nông thôn mới, với một huyện rất khó khăn, điểm xuất phát thấp. Bình quân năm 2010 mới đạt 5,0 tiêu chí/xã, chỉ sau hai năm triển khai đã đạt 7,4 tiêu chí/xã.

Để tận mắt nhìn thấy những đổi thay của Nông Cống, tôi đã về xã Trường Sơn, một xã điểm về xây dựng nông thôn mới của tỉnh. Con đường từ huyện dẫn về xã là tỉnh lộ 525 đã được rải nhựa, thẳng băng. Làng nào cũng có cổng được xây rất đẹp. Cổng làng nào cũng có câu đối bằng chữ Việt hai bên cổng. Những nếp nhà mái bằng, mái ngói ẩn trong khuôn viên có vườn cây ăn quả xanh tươi. Cam trĩu quả, bưởi níu cành. Những con số của xã Trường Sơn thay lời bình luận: Năm 2013, 18/19 tiêu chí nông thôn mới sẽ cán đích. Qui hoạch nông thôn được đánh giá là bài bản nhất. Hạ tầng kinh tế - xã hội của xã là tốt nhất huyện. 100% các làng (8/8 làng) đều có nhà văn hoá, thu nhập: 19,92 triệu/người/năm, cao hơn tiêu chí chung là 1,52 lần. Hộ nghèo còn dưới 5%. Trường Sơn là xã biết phát huy và khai thác ngoại lực tốt. Tế Lợi là xã điển hình về qui hoạch làng xã. Hiện nay đã đạt 12/19 tiêu chí nông thôn mới. Từ nhiều năm trước, khi chưa có tiêu chí nông thôn mới, Tế Lợi đã là xã đi đầu về qui hoạch. Về xã, tôi đã được các đồng chí Bí thư Đảng uỷ Vũ Thị Tâm và Chủ tịch xã Lê Trí Đức, dẫn đi xem đường đi lối lại. Qui hoạch rất cơ bản, đáp ứng yêu cầu về xây dựng nông thôn mới. Theo tôi, Tế Lợi có ba cái nhất: Qui hoạch bài bản nhất (từ 20 năm trước); đời sống văn hoá làng xã đẹp nhất và có những trang trại đẹp nhất. Trang trại của anh Suốt ở phía tây của xã như một khu du lịch sinh thái. Có hồ nuôi cá cao sản, có nơi nuôi lợn rừng và gà rừng, có khu nuôi ba ba... Cây xanh và hồ trong, bồn hoa và cây cảnh... Hộ nghèo của xã năm 2012 là 9,98%, năm nay - 2013 khả năng giảm còn 6%. Nhà ở dân cư đã xoá bỏ hoàn toàn nhà tranh tre nứa lá, dột nát, tạm bợ. Thu nhập đạt 17,5 triệu đồng/ người/ năm/13 triệu (tiêu chí chung) bằng 1,34 lần chỉ tiêu chung. Cán bộ biết tính trước, lo xa hàng vài chục năm nên bây giờ làm nông thôn mới theo 19 tiêu chí thật nhẹ nhàng. Qui hoạch chỉ cần bổ sung chứ không phải làm mới. Tế Lợi là điển hình của phát huy và khai thác nội lực tốt.

Văn hoá làng Đông Cao, văn hoá ở xã Tượng Văn- xã anh hùng thời kỳ đổi mới, văn hoá các làng ở xã Trường Sơn... những xã điển hình của Nông Cống cần học tập. Tuy nhiên, mọi sự phát sáng về văn hoá đều có gốc cả đấy. Từ xưa, vùng Nông Cống có không ít người học giỏi đỗ cao. Chỉ tính từ năm 1247 đến năm 1870 riêng huyện Nông Cống cũ có 27 người đỗ đại khoa (Trang 233 tập 2, “Đại Nam nhất thống chí” - Nhà xuất bản khoa học xã hội – Hà Nội – 1970). So với trong tỉnh Thanh Hoá thì số người đỗ đại khoa ở đây đứng hàng thứ nhì (sau huyện Hoằng Hoá). Trong dân gian còn truyền câu tục ngữ: “ Ông cống, ông nghè Cổ Định, Cổ Đôi” (vùng Cổ Định và Cổ Đôi, tức vùng xã Tân Ninh (Triệu Sơn) và xã Hoàng Giang bây giờ). Riêng xã Cổ Đôi có tới 13 người đỗ đại khoa. Giáo dục hiện nay ở Nông Cống đang phát huy truyền thống các cụ xưa, đứng trong tốp đầu của cả tỉnh. Tỷ lệ học sinh giỏi cấp tiểu học tăng 8% so với năm học trước 2011; cấp THCS thi học sinh giỏi xếp thứ 4 toàn tỉnh; đã thẩm định và công nhận 54 trường học đạt chuẩn quốc gia. Ngành giáo dục và đào tạo huyện Nông Cống được đề nghị tặng cờ đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua năm học 2012 - 2013...

Một đêm bên tách cà phê với Bí thư Huyện uỷ Phạm Minh Chính, anh trầm tư chia sẻ với chúng tôi những điều trăn trở: Cú hích cho Nông Cống là thuỷ lợi, tiêu úng, trị thuỷ sông Nhơm, sông Thị Long, sông Yên... Nhiều việc đang làm, nhiều việc phải làm mà chưa có đủ tiền... Xây dựng nông thôn mới cũng đang còn nhiều khó khăn. Chất lượng qui hoạch các xã chưa cao. Tiền được Nhà nước hỗ trợ là quá ít, yêu cầu dân đóng góp là rất lớn. Tệ nạn xã hội tuy có giảm nhưng chưa cơ bản vì nguy cơ từ ngoài vào. Nguồn vốn đầu tư đến rất chậm, ảnh hưởng đến tiến độ và tốc độ hoàn thành các tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Dù vậy, năm 2014 -2015 huyện phấn đấu sẽ có thêm các xã về đích xây dựng nông thôn mới là Hoàng Giang, Minh Thọ, Tượng Văn. Dân trông vào sự sáng suốt của cán bộ, mà cán bộ vẫn còn những người ngại khó, ngại khổ thì còn nhiều cản trở lắm.

Đêm trên đất Nông Cống càng về khuya càng nghe rõ tiếng gió từ núi Nưa thổi về nghe nao nao lòng người, bởi như có câu ca “Được mùa Nông Cống sống mọi nơi” vọng đến, vừa tự hào xen lẫn bí ẩn vô cùng khiến tôi nhớ lại bài ký: Từ Tứ hùng Sầm Sơn đến Thủ đô Nông Cống mà tôi đọc từ thời bao cấp... Hồi ấy, người ta nói về Nông Cống như một huyện nghèo đói mà chơi trội, ngông nghênh mà kỳ quặc... Bây giờ... Nông Cống thênh thang trên đường đổi mới. Bao nhiêu điều khác xưa. Giàu hơn, văn hoá hơn, đoàn kết hơn... dẫu bao điều còn phải vượt qua để xứng đáng là một huyện có nhiều điểm sáng của tỉnh Thanh.

Bút ký của Lê Tuấn Lộc

“Được mùa Nông Cống sống mọi nơi”

Đăng lúc: 10/08/2013 16:23:30 (GMT+7)

Từ lâu, tôi đã nảy sinh ý tưởng giải mã câu ca “Được mùa Nông Cống sống mọi nơi”. Xuất phát từ Hà Nội vào Thanh Hoá, tôi về Nông Cống, gặp Phó Ban Tuyên giáo huyện ủy Hoàng Sỹ Huệ, anh đưa đoàn chúng tôi đi thực tế ở một số xã. Tôi nêu câu hỏi: Theo anh Huệ, câu ca “Được mùa Nông Cống sống mọi nơi”, anh giải mã thế nào ? Anh nói: - câu này phải dẫn dắt từ thế kỷ thứ 17, cái gốc vẫn là Nông Cống xưa là huyện nhiều lúa gạo, nếu được mùa thì san sẻ cho các địa phương khác...

Theo sách vở ghi lại, sản vật nhiều nhất ở Nông Cống xưa nay vẫn là lúa gạo. Ngay cái tên Nông Cống đã nói lên điều đó. Huyện Nông Cống trước và sau công nguyên có tên là huyện Tư Nông (Huyện có nhiều sản vật nông nghiệp). Chữ Nông Cống bây giờ, theo chữ Hán có nghĩa là cung cấp, cống nạp về lương thực, sản phẩm nông nghiệp.

Có phải câu ca “Được mùa Nông Cống sống mọi nơi” có nghĩa là Nông Cống được mùa thì đỡ phải đi mua lúa gạo những nơi khác không? Có người hiểu như thế. Nếu hiểu như thế, thì giải thích thế nào về câu ca xưa của người xứ Thanh “Cơm Nông Cống, cá Quảng Xương, văn chương Hoằng Hóa”. Và ngay câu tiếp theo câu “Được mùa Nông Cống sống mọi nơi” là câu “Mất mùa Nông Cống tả tơi mọi vùng”. Trong dân gian còn truyền tụng câu “Nghệ Yên Thành, Thanh Nông Cống” (Nghệ An thì huyện Yên Thành là nhiều lúa, Thanh Hóa thì huyện Nông Cống là nhiều lúa).

Vậy thì tại sao bây giờ có người hiểu và giải thích câu ca trên khác đi?

Đúng là những năm 60 của thế kỷ trước, do điều kiện thiên tai hạn lụt xảy ra liên tục, tình hình thủy lợi giải quyết chưa triệt để nên đời sống rất nhiều khó khăn. Nông Cống có núi Nưa. Ngày xưa, rừng Nưa chưa bị phá, lũ lụt chưa dữ dội. Sau nhiều năm bị tàn phá, rừng Nưa thành đồi trọc, mưa là nước dội xuống đồng, bị ngập ngay. Xem các bản đồ cũ từ những năm 50 của thế kỷ trước, đều có các suối và hồ lớn có dung tích chứa nước đáng kể như hồ Vực Bưu, hồ Cổ Định, Mau Sở, hồ Tinh Mễ... nhưng thực tế hiện nay, các hồ này đã biến mất vì đất đá trên núi tràn xuống lấp hết. Cứ mỗi mùa lũ, mặt bằng cánh đồng ven núi Nưa lại bị bồi cao lên một ít. Sông Nhơm bé lại như một con ngòi nhỏ... Mặt khác, từ khi thành lập huyện Triệu Sơn tháng 2-1965, Nông Cống chia đôi. Bắc huyện Nông Cống bị cắt đi 20 xã có phần đất màu mỡ của các xã Tân Ninh, xã Nông Trường, Khuyến Nông, Tiến Nông... có nhiều thuận lợi về nông nghiệp vì đã căn bản giải quyết được vấn đề khô hạn do có nước nông giang từ đập Bái Thượng về. Để bù vào, Nông Cống được cả một vùng đất Tây Bắc huyện Tĩnh Gia là 7 xã vùng đất chua mặn, chất lượng đất và năng suất lúa kém. Đói lúc ấy là phải thôi. Bây giờ, mọi điều đã khác rồi. Diện tích đất cấy lúa của Nông Cống vẫn là dẫn đầu cả tỉnh Thanh Hoá. Theo số liệu năm 2012, tổng diện tích gieo trồng cả huyện là 28.133 ha, trong đó diện tích lúa 21.327,2 ha. Năng suất lúa năm 2012 đạt 60,4 tạ/ha, cao nhất từ trước đến nay và là 1 trong 6 huyện có năng suất lúa cao nhất tỉnh.

Buổi tối, Bí thư huyện uỷ Phạm Minh Chính đi công tác về. Anh Chính thông tin thêm: Năm 2012, bình quân lương thực theo đầu người là một trong những huyện nằm trong tốp đầu của tỉnh, 726,40 kg. Năng suất lúa theo diện tích là 1 trong 6 huyện cao nhất của tỉnh: 65 tạ/ha-vụ. Bàn về xây dựng nông thôn mới, anh Chính cho biết: Xây dựng nông thôn mới ở Nông Cống được tỉnh đánh giá là huyện có tốc độ xây dựng khá nhanh chỉ sau huyện Yên Định và một vài huyện khác. Nông Cống hiện đã có 25/29 xã hoàn thành việc lập đề án quy hoạch xây dựng nông thôn mới, bình quân toàn huyện đạt 7,4 tiêu chí. Nếu tính từ khi bắt đầu triển khai xây dựng nông thôn mới, với một huyện rất khó khăn, điểm xuất phát thấp. Bình quân năm 2010 mới đạt 5,0 tiêu chí/xã, chỉ sau hai năm triển khai đã đạt 7,4 tiêu chí/xã.

Để tận mắt nhìn thấy những đổi thay của Nông Cống, tôi đã về xã Trường Sơn, một xã điểm về xây dựng nông thôn mới của tỉnh. Con đường từ huyện dẫn về xã là tỉnh lộ 525 đã được rải nhựa, thẳng băng. Làng nào cũng có cổng được xây rất đẹp. Cổng làng nào cũng có câu đối bằng chữ Việt hai bên cổng. Những nếp nhà mái bằng, mái ngói ẩn trong khuôn viên có vườn cây ăn quả xanh tươi. Cam trĩu quả, bưởi níu cành. Những con số của xã Trường Sơn thay lời bình luận: Năm 2013, 18/19 tiêu chí nông thôn mới sẽ cán đích. Qui hoạch nông thôn được đánh giá là bài bản nhất. Hạ tầng kinh tế - xã hội của xã là tốt nhất huyện. 100% các làng (8/8 làng) đều có nhà văn hoá, thu nhập: 19,92 triệu/người/năm, cao hơn tiêu chí chung là 1,52 lần. Hộ nghèo còn dưới 5%. Trường Sơn là xã biết phát huy và khai thác ngoại lực tốt. Tế Lợi là xã điển hình về qui hoạch làng xã. Hiện nay đã đạt 12/19 tiêu chí nông thôn mới. Từ nhiều năm trước, khi chưa có tiêu chí nông thôn mới, Tế Lợi đã là xã đi đầu về qui hoạch. Về xã, tôi đã được các đồng chí Bí thư Đảng uỷ Vũ Thị Tâm và Chủ tịch xã Lê Trí Đức, dẫn đi xem đường đi lối lại. Qui hoạch rất cơ bản, đáp ứng yêu cầu về xây dựng nông thôn mới. Theo tôi, Tế Lợi có ba cái nhất: Qui hoạch bài bản nhất (từ 20 năm trước); đời sống văn hoá làng xã đẹp nhất và có những trang trại đẹp nhất. Trang trại của anh Suốt ở phía tây của xã như một khu du lịch sinh thái. Có hồ nuôi cá cao sản, có nơi nuôi lợn rừng và gà rừng, có khu nuôi ba ba... Cây xanh và hồ trong, bồn hoa và cây cảnh... Hộ nghèo của xã năm 2012 là 9,98%, năm nay - 2013 khả năng giảm còn 6%. Nhà ở dân cư đã xoá bỏ hoàn toàn nhà tranh tre nứa lá, dột nát, tạm bợ. Thu nhập đạt 17,5 triệu đồng/ người/ năm/13 triệu (tiêu chí chung) bằng 1,34 lần chỉ tiêu chung. Cán bộ biết tính trước, lo xa hàng vài chục năm nên bây giờ làm nông thôn mới theo 19 tiêu chí thật nhẹ nhàng. Qui hoạch chỉ cần bổ sung chứ không phải làm mới. Tế Lợi là điển hình của phát huy và khai thác nội lực tốt.

Văn hoá làng Đông Cao, văn hoá ở xã Tượng Văn- xã anh hùng thời kỳ đổi mới, văn hoá các làng ở xã Trường Sơn... những xã điển hình của Nông Cống cần học tập. Tuy nhiên, mọi sự phát sáng về văn hoá đều có gốc cả đấy. Từ xưa, vùng Nông Cống có không ít người học giỏi đỗ cao. Chỉ tính từ năm 1247 đến năm 1870 riêng huyện Nông Cống cũ có 27 người đỗ đại khoa (Trang 233 tập 2, “Đại Nam nhất thống chí” - Nhà xuất bản khoa học xã hội – Hà Nội – 1970). So với trong tỉnh Thanh Hoá thì số người đỗ đại khoa ở đây đứng hàng thứ nhì (sau huyện Hoằng Hoá). Trong dân gian còn truyền câu tục ngữ: “ Ông cống, ông nghè Cổ Định, Cổ Đôi” (vùng Cổ Định và Cổ Đôi, tức vùng xã Tân Ninh (Triệu Sơn) và xã Hoàng Giang bây giờ). Riêng xã Cổ Đôi có tới 13 người đỗ đại khoa. Giáo dục hiện nay ở Nông Cống đang phát huy truyền thống các cụ xưa, đứng trong tốp đầu của cả tỉnh. Tỷ lệ học sinh giỏi cấp tiểu học tăng 8% so với năm học trước 2011; cấp THCS thi học sinh giỏi xếp thứ 4 toàn tỉnh; đã thẩm định và công nhận 54 trường học đạt chuẩn quốc gia. Ngành giáo dục và đào tạo huyện Nông Cống được đề nghị tặng cờ đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua năm học 2012 - 2013...

Một đêm bên tách cà phê với Bí thư Huyện uỷ Phạm Minh Chính, anh trầm tư chia sẻ với chúng tôi những điều trăn trở: Cú hích cho Nông Cống là thuỷ lợi, tiêu úng, trị thuỷ sông Nhơm, sông Thị Long, sông Yên... Nhiều việc đang làm, nhiều việc phải làm mà chưa có đủ tiền... Xây dựng nông thôn mới cũng đang còn nhiều khó khăn. Chất lượng qui hoạch các xã chưa cao. Tiền được Nhà nước hỗ trợ là quá ít, yêu cầu dân đóng góp là rất lớn. Tệ nạn xã hội tuy có giảm nhưng chưa cơ bản vì nguy cơ từ ngoài vào. Nguồn vốn đầu tư đến rất chậm, ảnh hưởng đến tiến độ và tốc độ hoàn thành các tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Dù vậy, năm 2014 -2015 huyện phấn đấu sẽ có thêm các xã về đích xây dựng nông thôn mới là Hoàng Giang, Minh Thọ, Tượng Văn. Dân trông vào sự sáng suốt của cán bộ, mà cán bộ vẫn còn những người ngại khó, ngại khổ thì còn nhiều cản trở lắm.

Đêm trên đất Nông Cống càng về khuya càng nghe rõ tiếng gió từ núi Nưa thổi về nghe nao nao lòng người, bởi như có câu ca “Được mùa Nông Cống sống mọi nơi” vọng đến, vừa tự hào xen lẫn bí ẩn vô cùng khiến tôi nhớ lại bài ký: Từ Tứ hùng Sầm Sơn đến Thủ đô Nông Cống mà tôi đọc từ thời bao cấp... Hồi ấy, người ta nói về Nông Cống như một huyện nghèo đói mà chơi trội, ngông nghênh mà kỳ quặc... Bây giờ... Nông Cống thênh thang trên đường đổi mới. Bao nhiêu điều khác xưa. Giàu hơn, văn hoá hơn, đoàn kết hơn... dẫu bao điều còn phải vượt qua để xứng đáng là một huyện có nhiều điểm sáng của tỉnh Thanh.

Bút ký của Lê Tuấn Lộc

0 bình luận
(Bấm vào đây để nhận mã)

Ý kiến thăm dò